KHOÁ HỌC ĐÀN DÂN TỘC VÀ CA HUẾ DO BAN NGHỆ THUẬT – KỸ CÔNG – GIA CHÁNH TỔ CHỨC

Thực hiện kế hoạch đã được sự đồng ý của Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam (Hoàng Tộc Nhà Nguyễn), Ban Nghệ thuật và Kỹ công – Gia chánh sẽ tổ chức khóa học đàn dân tộc và ca Huế cho bà con Hoàng Tộc Nhà Nguyễn và bạn bè, người thân của người trong Hoàng Tộc Nhà Nguyễn, thuộc mọi lứa tuổi. Kế hoạch tổ chức như sau:

         1. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM TỔ CHỨC:

         Dự kiến lớp học sẽ bắt đầu từ ngày 01/06/2021, tại Nhà hát Bến Xuân – số 51 Đường Văn Thánh, Hương Hồ, TP Huế.

            – Địa chỉ mail ghi danh tham gia lớp học: camillehuyen@yahoo.com   

         Hoặc ghi danh trực tiếp tại địa chỉ nêu trên.

         2. CÁC LỚP HỌC:

         2.1. ĐÀN DÂN TỘC:

     – Mỗi khoá học gồm 3 tháng (12 tuần). Mỗi tuần học 2 lần, mỗi lần 1 giờ.

     – Mỗi lớp học gồm 3 học viên.

     – Lệ phí mỗi giờ học là 60.000₫ (Sáu mươi ngàn dồng chẵn).

         + Giảng viên giảng dạy:                 

         Các thầy cô là nghệ nhân đàn dân tộc, đã hay đang là giảng viên tại Học Viện Âm Nhạc Huế.

Đàn tranh: cô Tôn Nữ Lệ Hoa, cô Mai Nga và cô Minh Châu

Đàn nhị: thầy Đình Hưng

Đàn bầu: thầy Văn Vui

Sáo trúc: thầy Văn Vui

Đàn nguyệt: thầy Hải Hoà

+ Đàn tỳ:

         2.2. CA HUẾ:

      –  Mỗi khoá học 12 tuần, mỗi tuần 3 lần, mỗi lần 1 giờ; 2 tuần cuối học biểu diễn. Chương trình học nằm trong 17 bài hay nhất của Ca Huế.

      – Mỗi lớp học có từ 7 – 10 học viên

      – Lệ phí toàn khoá học là 2.500.000₫ (Hai triệu năm trăm ngàn đồng chẵn).

         * Ghi chú: Người học thanh toán 100% lệ phí cho BTC khi bắt đầu học và không hoàn lại nếu bỏ học (ngoại trừ trường hợp vì vấn đề sức khỏe không thể tiếp tục tham gia lớp học).

      + Giảng viên giảng dạy: 

      Nghệ sĩ Nhân dân Kiều Oanh của Nhà Hát Ca Kịch Huế đảm trách. Với sự hỗ trợ của nghệ sĩ Camille Huyền.

         Ghi chú:

         – Tài khoản chuyển trả lệ phí: Hội Đồng Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam – Hoàng Tộc Nhà Nguyễn: Bửu Nam, Tôn Thất Hộ – Số Tài khoản 1017948821, Ngân hàng Vietcombank Chi nhánh Huế.

         Hoặc nộp trực tiếp cho Cô Huyền Tôn Nữ Thị Cẩm Hồng.

    Muốn biết thêm chi tiết, học viên có thể liên hệ qua số điện thoại 0905.849.339.

KHOÁ HỌC NẤU NƯỚNG DO BAN NGHỆ THUẬT – KỸ CÔNG – GIA CHÁNH TỔ CHỨC

Thực hiện kế hoạch đã được sự đồng ý của Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam (Hoàng Tộc Nhà Nguyễn), Ban Nghệ thuật và Kỹ công – Gia chánh sẽ tổ chức khóa học nấu nướng dành riêng cho con cháu Hoàng Tộc Nhà Nguyễn. Kế hoạch tổ chức như sau:

         1. Thời gian và địa điểm tổ chức: Dự kiến lớp học sẽ bắt đầu từ ngày 01/06/2021, tại Nhà hát Bến Xuân – số 51 Đường Văn Thánh, Hương Hồ, TP Huế.

         2. Điều kiện và cách thức tổ chức lớp học:

         – Căn cứ số lượng người ghi danh vào các buổi học, Ban NT-KC-GC sẽ bố trí học viên vào các lớp; mỗi lớp có tổi đa 10 người, tối thiểu 3 người.   

         – Mỗi tuần học 2 món;      – Mỗi một tháng dạy đủ 8 món.

         3. Điều kiện cá nhân và địa chỉ ghi danh tham gia lớp học:  

         – Điều kiện cá nhân: Là con cháu của Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam (Hoàng tộc Nhà Nguyễn). Khi đăng ký lớp học, người đăng ký cần xuất trình Chứng minh Nhân dân.

            – Địa chỉ ghi danh tham gia lớp học: camillehuyen@yahoo.com   

         4. Các món tổ chức học: Gồm 8 món:

         – Bánh bao

         – Bánh ngũ sắc

         – Bánh trứng muối tan chảy

         – Bánh crêpe sầu riêng

         – Chè khoai tía + tỉa hoa 

         – Chè bột lọc bọc heo quay + tỉa hoa

         – Chè bắp + tỉa hoa

         – Tôm chua Huế 

 Mục đích tổ chức dạy nấu ăn các món trên đây là để duy trì truyền thống tự tay làm những món không thể thiếu trong các lễ kỵ, giỗ…; như chè, với một chút trang trí tỉa hoa, tạo sự trân quý cho lễ vật để dâng lên ông bà tổ tiên; bánh có thể dùng để dâng cúng, tiệc, làm quà tặng…; tôm chua là một món ăn các vị vua chúa rất thích dùng, hơn nữa, đây là một đặc sản riêng có của Huế. 

         5. Lệ phí học:

         – Lệ phí học 8 món là 1.600.000₫ (Một triệu sáu trăm ngàn đồng).

         – Lệ phí học không bao gồm lệ phí nguyên vật liệu để thực hành (được tính riêng cho từng món); học viên được thụ hưởng thành quả thực hành. 

         – Người học thanh toán 100% lệ phí cho BTC khi bắt đầu học và không hoàn lại nếu bỏ học (ngoại trừ trường hợp vì vấn đề sức khỏe không thể tiếp tục tham gia lớp học).

         Ghi chú:

         – 50% lệ phí dành cho Quỹ Nghệ Thuật & Kỹ Công Gia Chánh để chi cho công việc hiếu sự trong năm (22 lễ kỵ: 9 vị Chúa và 13 vị Vua) tại Thế Miếu và Triệu Miếu do Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc chủ trì.

         – 50% lệ phí chi cho đi lại của giảng viên… (không tính chi phí mặt bằng tổ chức lớp học).

         – Tài khoản chuyển trả lệ phí: Hội Đồng Nguyễn PhúcTộc Việt Nam – Hoàng Tộc Nhà Nguyễn: Bửu Nam, Tôn Thất Hộ – Số Tài khoản 1017948821, Ngân hàng Vietcombank Chi nhánh Huế.

         Hoặc nộp trực tiếp cho Cô Huyền Tôn Nữ Cẩm Hồng.

         6. Giảng viên phụ trách:

     + Chủ nhân Nhà Hát Bến Xuân Camille Huyền Tôn Nữ.

     + Nghệ nhân Ưu tú Phan Tôn Gia Hiền. 

     + Nghệ nhân Nguyễn Phước Tuý Hà. 

     Muốn biết thêm chi tiết, học viên có thể liên hệ qua số điện thoại 0905.849.339.

Đại học Mỹ vinh danh sinh viên xuất sắc người Việt

Khuyến học – Khuyến tài là chuyên mục nhẳm kêu gọi bà con Hoàng tộc cùng chung tay chăm lo cho thế hệ trẻ tương lai về mọi mặt, vật chất cũng như tinh thần, với mục đích cao nhất là phát triển trường tồn cho dòng tộc. Ngoài ra, đây cũng là chuyên mục vinh danh những cá nhân trẻ có thành tích học tập và rèn luyện vượt bật, làm rạng danh Hoàng tộc, nhằm nêu gương tốt cho các thế hệ tiếp nối noi theo mà phấn đấu. Vì vậy, Ban Biên tập kính mong bà con tìm hiểu giới thiệu các gương mặt trẻ có thành tích vượt trội về mọi mặt để vinh danh cho rạng rỡ dòng tộc ta.

Mở đầu cho chuyên mục này là bài viết trên báo Tuổi trẻ Online, của tác giả Việt Toàn, đăng ngày 12/05/2013, vinh danh cô Huyền Tôn Nữ Hoàng Lan về thành tích học tập xuất sắc của mình. Cô sinh viên xuất sắc này chính là con của Ông/Bà Nguyễn Phúc Vĩnh Hượt, thuộc Phòng Phong Quốc Công. Trân trọng giới thiệu cùng bà con.

Một sinh viên cao học người Việt vừa được Trường đại học Vanderbilt (bang Tennessee, Mỹ) vinh danh nhờ thành tích tốt nghiệp xuất sắc.

Huyen Ton Nu Hoang Lan (thứ 5 từ trái sang) nhận giải thưởng Founder’s Medal cùng các sinh viên khác đến từ các trường thành viên của Đại học Vanderbilt (bang Tennessee, Mỹ) – Ảnh: Website ĐH Vanderbilt

Cô Huyen Ton Nu Hoang Lan được vinh dự là một trong 10 người nhận huy chương vàng (Founder’s Medal) từ hiệu trưởng Nicholas S. Zeppos trong lễ tốt nghiệp hôm 10-5 vừa qua. 

Founder’s Medal – giải thưởng do người sáng lập Trường Cornelius Vanderbilt đề xuất lần đầu vào năm 1877 – được trao hằng năm cho những sinh viên có điểm tốt nghiệp cao nhất khóa đến từ 10 trường thành viên của Đại học Vanderbilt. 

Sinh ra và lớn lên ở Thừa Thiên – Huế, Lan tốt nghiệp thạc sĩ quản trị kinh doanh tại Trường Owen Graduate School of Management, một trường thành viên của Đại học Vanderbilt. Cô từng nhận được nhiều giải thưởng khác nhau trong lĩnh vực học thuật, trong đó có học bổng Bruce D. Henderson dành cho sinh viên có điểm trung bình tích lũy cao nhất. 

Cô từng tham gia công tác tư vấn cho các sinh viên có ý định vào Đại học Vanderbilt và là một thành viên tích cực của Ủy ban tư vấn sinh viên cũng như các câu lạc bộ sinh viên tài chính của trường. Lan còn được chứng nhận là thành viên của Hiệp hội quốc tế Beta Gamma Sigma, vốn được xem là vinh dự cao quý nhất mà một sinh viên ngành kinh tế có thể đạt được. 

Cô từng thực tập ở vị trí tư vấn tài chính cao cấp tại Công ty Dell và hiện lên kế hoạch theo đuổi sự nghiệp phân tích định lượng và kinh doanh.

Bạch Dinh, Vũng Tàu: Nơi lưu dấu tích Vua Thành Thái

Tiếp tục loạt bài với chủ đề “Theo dấu chân Tiên tổ” của tác giả Liên Quốc, phòng Anh Duệ Hoàng Thái Tử, ban biên tập xin giới thiệu bài thứ tư ghi lại dấu tích có liên quan đến Đức Thành Thái tại Vũng Tàu nhân dịp ngày sinh của Ngài (14/03/1879).

Nơi đây, Hoàng đế Minh Mạng từng cho xây dựng Pháo đài Phước Thắng để kiểm soát cửa biển Cần Giờ. Pháo đài này là nơi đã nổ phát súng đầu tiên (10.2.1859) vào hạm đội Pháp khi chúng tấn công Sài Gòn – Gia Định (bằng đường biển) và đã cản trở được bước tiến của quân Pháp trong 1 ngày đêm. Đó là một chiến tích oanh liệt của quân và dân Vũng Tàu trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. 

Sau khi chiếm được quyền cai trị Đông Dương, chính quyền Pháp đã cho san phẳng pháo đài để xây dựng một dinh thự dùng làm nơi nghỉ mát cho các quan Toàn quyền Đông Dương.

Đề án được chính Toàn quyền Paul Doumer phê chuẩn và chính ông cũng là người đặt tên cho dinh thự này là Villa Blanche, theo tên của con gái ông là bà Blanche Richel Doumer.

Công trình được khởi công vào năm 1898, mãi đến năm 1923 mới hoàn thành. Do màu sơn bên ngoài nên người Việt quen gọi dinh thự này là Bạch Dinh.

Paul Doumer chưa kịp sử dụng dinh thự này thì phải về nước. Người kế nhiệm là Paul Beau có lẽ mới là người đầu tiên sử dụng nó.

Tuy nhiên, đến tháng 9 năm 1907, nơi này được dùng làm nơi giam lỏng cựu hoàng Thành Thái. Ngài sống tại đây trong gần 10 năm. Dân địa phương kính trọng Ngài, nên còn gọi Bạch Dinh là Dinh Ông Thượng.

Trong thời gian này đức vua có làm bài thơ như sau:

   Sầu Tây Bể Cấp

   Sống thừa nào có biết hôm nay

   Nhìn thấy non sông đất nước này

   Sừng ngựa chưa quên câu chuyện cũ

   Ruột tằm chín khúc mối sầu tây [1]

   Thành xuân muôn dặm mây mù tịt

   Bể cấp tứ bề bủa sóng vây [2]

   Tiếng súng ngày đêm như khúc nhạc

   Dẫu cho sắt đá cũng chau mày.

Ngày nay đến Bạch Dinh, du khách lần theo lối đi rải đầy hoa điệp vàng và hoa sứ trắng, chếch lên phía trái của sân chính Bạch Dinh để được xem bài thơ của vua Thành Thái (được khắc và dựng trang trọng trong một nhà bia). Bài thơ qua bao nhiêu năm vẫn có sức sống mãnh liệt với những người yêu quý vị vua này. 

Năm 1916, cựu hoàng Thành Thái cùng con trai là cựu hoàng Duy Tân bị đưa đi đày ra đảo Réunion. Bạch Dinh được sử dụng trở lại là nơi nghỉ mát của các Toàn quyền Đông Dương.

Năm 1934, Bạch Dinh được nhượng lại để làm nơi nghỉ mát cho Hoàng đế Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương.

Trong những năm sau đó, dinh luôn được dùng làm nơi nghỉ mát của nguyên thủ hoặc các quan chức cao cấp của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Sau năm 1975, có thời gian dinh không được sử dụng vào mục đích cụ thể nào trước khi chính thức được chuyển thành một địa điểm du lịch. Ngày 4 tháng 8 năm 1992, Bạch Dinh đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Kính phục Hoàng Đế Thành Thái, một vị vua yêu nước thương dân, có tư tưởng canh tân nhưng cuộc đời gặp nhiều uẩn ức.

Chú thích:

Hai câu này trong bia ở Bạch Dinh khắc:

[1] “Ruột tằm đòi đoạn mối sầu Tây”

[2] “Bể Cấp tứ bề sóng bủa vây”

Chân dung Ngài Thành Thái (1879 – 1954)
Bài thơ của Vua Thành Thái được khắc vào bia đá, dựng ở Bạc Dinh
Những khẩu thần công ở pháo đài Phước Thắng phía trước dinh
Bức hoạ một chiếc thuyền buồm trong Bạch Dinh
Cặp ngà voi trong phòng chính Bạch Dinh

Lăng Thiên Thọ và quần thể sơn lăng ở làng Định Môn, Hương Trà

Lăng tẩm là di sản lớn lao mà Tiên Đế đã để lại. Thanh Minh hằng năm là dịp để con cháu thể hiện tấm lòng hiếu nghĩa đến với các bậc tiên đế. Nhân dịp Thanh Minh năm nay, ban biên tập xin giới thiệu bài mở đầu trong loạt bài với chủ đề Thanh Minh và Lăng tẩm: 33 năm “lãng quên và hồi phục chưa trọn” của tác giả Vĩnh Dũng, Phòng Trấn Tịnh Quận Công, Phó Chủ tịch Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam.

Một năm trước.

Năm 2020, kế hoạch thanh minh hàng năm đã lên phương án  nhưng phải dừng việc tổ chức  đông đủ bà con cùng đi Thanh minh, lý do là Huế đang có sự giãn cách xã hội theo lệnh chung- nhằm bảo vệ sự an toàn phòng chống dịch covid.  Sau khi đi khảo sát thực tế cùng với Ban lăng mộ NPT. Tôi về  nhà, ngồi một mình, yên tĩnh, mở lại các chùm ảnh xa xưa của hệ thống Lăng Tẩm- Lăng mộ NPT, từ những ngày đầu của sự khởi động hiếu sự 1987.

Từ Lăng Trường Cơ ở làng La Khê bên dòng sông Hương (nhánh Tả Trạch), chúng tôi đạp xe đạp lên phía Đình Môn. Và đi lên các bậc cấp “điêu tàn ” để vào phía cửa hông của khu vực điện Minh Thành.   Xin thưa thêm đôi chút: Thiên Thọ Lăng có 3 công trình chính:

1.Điện thờ Đức Gia Long và Hai vị Hoàng Hậu- Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu và Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu. Tên gọi là Điện Minh Thành.

2. Khu nhà Bia Thánh Đức Thần Công. 

3. Khu Lăng song táng Đức Gia Long và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu.

Ngược về phía bên hữu  sẽ thấy hai công trình:

4. Khu vực lăng của Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu gọi là Thiên Thọ Hữu Lăng. 

5. Điện thờ có tên gọi là Điện Gia Thành.

Hôm đó chúng tôi đi vào Điện Minh Thành từ phía cửa hông gần đường mòn nhất, hình ảnh đầu tiên là thế nầy đây:

Từ các bậc cấp nầy, chúng tôi đi vào ngôi tẩm điện. Mùi ẩm mốc và mùi phân dơi nồng nặc! 

Và đây là mặt tiền của ngôi tẩm điện. Thiệt là “điêu tàn”, ngậm ngùi thay!

Đi qua tiếp Nhà Bia, tấm bia đá bị nứt nẻ nhiều, qua tiếp nữa sẽ đến khu lăng của Ngài.

Hình ảnh tại Lăng Thiên Thọ-1987, Thầy Hanh đứng hàng đầu tiên bên phải, nhiều vị khác…, và tôi Vĩnh Dũng đứng hàng thứ ba bên phải.
Đây là 1 trong chùm ảnh tư liệu của chúng tôi từ những ngày tháng gian nan vất vả sơ khởi, cũng là sự Khởi động lại Việc Đi chạp Thanh minh, Kỵ giỗ và Gia phả của Dòng họ từ 1987. 
     Anh TT. Nghiễm Hệ 5 TB. Là người  cầm máy ảnh đi cùng đoàn để chụp ảnh, ảnh đen trắng, ai cần sang ảnh thì góp tiền cho anh Nghiễm sang in. Trích Tư liệu Lăng Tẩm -33 năm một thời lãng quên và hồi phục-VD. Thanh Minh 2020.

Ảnh cũ người xưa- một số vị cao niên trưởng lão thủa đó đã qua đời. 

Và tất nhiên, vị cao niên tôi nghĩ đến đầu tiên là Thầy Tôn Thất Hanh –người đã khởi đầu cuộc “đi chạp” từ đó, chúng tôi đã giữ lại được các ảnh đen trắng xưa của những tháng ngày gian khó  “gạo châu củi quế” , những chiếc xe đạp cọc cạch với bi đông nước, gói xôi, ổ mì…băng qua những con đường mòn quanh co, con đường lên Lăng Tẩm NPT thời đó quả rất gian nan, cỏ cây rậm rịt. Thầy Hanh (nguyên Chủ tịch HDTS Nguyễn Phúc Tộc- nguyên Trưởng Hệ 7TB- nguyên giáo sư dạy môn Hóa-Địa chất của Viện Đại Học Huế), Thầy cũng vừa qua đời trước mùa Thanh minh 2020- tôi không thể quên được hình ảnh Thầy dẫn chúng tôi lên MIỀN LĂNG TẨM từ độ ấy. 33 năm vụt qua như một “bóng câu” trên cánh cửa thời gian! 

Không thể quên được Thầy và các vị cao niên thời ấy của sự mở đầu một trang hiếu sự: Sự khởi đầu gian nan quá đỗi!

Đôi dòng ngắn gọn.Từ cuộc họp năm 1987, tại ngôi nhà số 79 đường Phan Đình Phùng- Huế,  dưới sự chủ trì của Bác Tôn Thất Hàng, Thầy Hanh đã chọn ngày chủ nhật tiếp theo để  khởi đầu cho một “cuộc hành hương đi lên Miền Lăng Tẩm”. Ai sẽ là người dẫn đường đi vào các vị trí lăng tẩm bị che khuất sau lớp lớp cỏ cây bụi bờ. Đó là  Bác T.T. Đơn,  người có sức khỏe và trí nhớ tốt đi đầu tìm đến các lăng Chúa Nguyễn , bác từng làm việc cho “ban lăng mộ” của thời kỳ trước đó- được gọi là “ông đội Đơn”, bác là người lao động giõi và khéo, một nhân lực phát dọn rất tốt và có kinh nghiệm. Quần thể các lăng vùng Định Môn nầy còn có Các Lăng  Quang Hưng,Vĩnh Mậu, Trường Phong, Lăng Thụy Thánh, Lăng Hoàng Cô.

Các lăng Chúa và Hậu, tìm được lối vào cũng khó, bên trong thì cỏ cây rậm rịt.

Trong ảnh nầy Bác Đơn là người mặc áo dài đen, đang quỳ làm lễ

Chùm ảnh Lăng Tẩm  từ 1987 khởi đầu , đến  nay đã 34 năm. Xin chia sẻ lên đây.

Lăng Thụy Thánh (mẹ của Đức Gia Long).
Lăng Thiên Thọ Hữu (Mẹ của Đức Minh Mạng)
Con cháu Nguyễn Phước tộc đi chạp lăng các Chúa ngày Mồng 10 tháng 9 năm Đinh Mão (1/11/1987)

Ảnh lăng Vĩnh Mậu  đã bị hư, ở đây xin nói chút chuyện, khi đến lăng nầy , đang phát dọn thì một bầy ong túa ra. Mọi người chạy dạt ra cả, lung túng, bác Đơn bèn đi ra ngoài tìm thanh tre nhỏ buộc thành 1 cái đuốc xông khói. Ong bay đi cả, vậy là cuộc phát dọn lại tiếp tục.

Còn số ảnh khác nữa đã  bị hư rồi,  do không khí ẩm những ngày lụt 1999.

Tóm tắt lại:

 Từ Lăng Đức Gia Long (lăng song táng Ngài và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu), đi qua bên kia phía đường bên tay phải là lăng Thiên Thọ Hữu, rồi  tiếp tục suốt một ngày chúng tôi  đi đến các lăng khác trong quần thể nầy: 

– Lăng Quang Hưng (Thái Tông Hiếu Triết Hoàng hậu) 

– Lăng Vĩnh Mậu (Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng hậu) 

– Lăng Trường Phong (Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng đế) 

– Lăng Thoại Thánh (Hưng Tổ Hiếu Khương Hoàng hậu) 

– Lăng Hoàng Cô (Thái Trưởng Công chúa Long Thành, Vua Minh Mạng gọi bằng cô nên thời ấy gọi là Lăng Hoàng Cô)

Hiện nay, Lăng Vua Gia Long đã được trùng tu, điện Minh Thành và điện Gia Thành cũng vậy. Năm 2021 bà con NPT  đi Thanh minh sẽ thuận tiện hơn nhiều. Bà con chúng ta sẽ chụp được nhiều bức ảnh màu đẹp. Chùm ảnh trên đây được xem như một chút chia sẻ kỷ niệm đánh dấu một thời gian khó sơ khai!

Vua Gia Long: 200 năm còn lại

Nhân kỷ niệm 200 ngày mất của Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế, Hoàng Đế Gia Long, Đài phát thanh truyền hình Thừa Thiên Huế vừa phát video tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp Ngài. Xin trân trọng giới thiệu bà con video tư liệu này để hiểu thêm công lao to lớn của Ngài. Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam xin cám ơn Đài đã cho phép phát lại video tư liệu này trên trang web chính thức của Hội đồng.

Hoàng đế Gia Long và công cuộc khai lập triều Nguyễn – 200 năm nhìn lại: Kỳ III – Chân dung và cuộc đời

Ban biên tập trân trọng giới thiệu tiếp bài viết thứ ba của tác giả Nguyễn Thu Hoài về Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế. Ban biên tập trân trọng cám ơn tác giả và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 đã cho phép đăng tải loạt bài viết này trên trang web của Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam.

– Thời niên thiếu

Sử chép, Gia Long sinh năm Nhâm Ngọ (1762), mùa xuân, tháng giêng, ngày Kỷ Dậu (ngày Rằm tháng Giêng). Là con thứ 3 của Hưng tổ Hiếu Khang hoàng đế (tức Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân, con trai thứ 2 của Chúa Nguyễn Phúc Khoát), mẹ là Hiếu Khang hoàng hậu Nguyễn thị (con gái của Cai cơ Nguyễn Phúc Trung). Ông tên húy là Chủng, còn có tên húy là Noãn (do đức Duệ tông cho rằng chữ này có bộ Nhật là tượng của mặt trời lúc giữa trưa), lại có tên là Ánh, nên thường gọi là Nguyễn Ánh. Mùa thu năm Ất Dậu (1765), Hưng tổ mất, khi ấy Nguyễn Ánh mới lên 4 tuổi. Ông lớn lên, thông minh vốn sẵn nên được Duệ Tông (tức Chúa Nguyễn Phúc Thuần) rất quý cho ở trong cung. Năm Quý Tị (1773), Tây Sơn nổi lên, năm sau Giáp Ngọ (1774) quân Trịnh lại kéo vào, Chúa Nguyễn Phúc Thuần cho theo vào Quảng Nam, năm Ất Mùi (1775) lại vào Gia Định trao cho chức Chưởng sử, coi quân Tả dực. Mỗi khi có việc quân, Chúa đều cho ngồi cùng để bàn tính, ông nhận định nhiều điều rất sáng suốt, vì vậy các tướng đều tâm phục. Năm 1777, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ cầm đầu vào đánh chiếm Gia Định, Chúa tôi nhà Nguyễn phải bỏ thành chạy về Định Tường, Cần Thơ. Quân Tây Sơn truy đuổi gắt gao, Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương [1] và một số quan lại bị bắt rồi bị giết. Kể từ đây Nguyễn Ánh bắt đầu cuộc đời long đong tìm cách khôi phục vương nghiệp. 

Hoàng đế Gia Long và công cuộc khai lập triều Nguyễn – 200 năm nhìn lại: Kỳ II – Công cuộc kiến thiết triều Nguyễn

Ban biên tập trân trọng giới thiệu tiếp bài viết thứ hai của tác giả Nguyễn Thu Hoài về Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế. Ban biên tập trân trọng cám ơn tác giả và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 đã cho phép đăng tải loạt bài viết này trên trang web của Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam.

Sau một phần tư thế kỷ bôn ba, bắt đầu cầm quân đánh dẹp khi mới tròn 15 tuổi, 40 tuổi mới giành được ngôi vị, hơn ai hết vua Gia Long ý thức rất rõ về quyền lực và những mất mát tổn thất khi tranh giành quyền lực. Vì vậy ngay lập tức ông bắt tay vào công cuộc thiết chế bộ máy, xây dựng chính quyền, luật pháp, quy định nghi thức trong triều… Mục đích vừa để thiết lập một tổ chức nhà nước hoàn thiện nhưng trên hết là củng cố quyền lực của triều Nguyễn, một triều đại vừa mới được khai sinh. 

– Hành chính: 

Tại trung ương, vua Gia Long thiết đặt theo chế độ cũ của nhà Lê tức vẫn gồm Lục Bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Đứng đầu các Bộ là Thượng thư, giúp việc cho Thượng thư có Tả Hữu Tham tri, dưới có Tả Hữu Thị lang và các thuộc viên Lang trung, Viên ngoại lang, Chủ sự, Thư lại… Ngoài Lục Bộ còn có hệ thống cơ quan chuyên môn tham mưu giúp việc cho nhà vua như: Tam Nội viện [1] (tức Thị thư viện, Thị hàn viện, Nội hàn viện), Thượng Bảo ty, Đô Sát viện, Thái Y viện, Hàn Lâm viện, Khâm Thiên giám. Ngoài ra vua cho đặt ra Tào chính là cơ quan coi giúp việc thuế khóa, vận tải; đứng đầu có các viên Tào chính sứ và Tào chính phó sứ. Đứng đầu triều không đặt chức danh Tể tướng [2], nhà vua cũng không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ đặt ngôi Hoàng phi và cung tần. Tại địa phương, vua Gia Long vẫn giữ nguyên cách phân chia hành chính từ thời các Chúa Nguyễn. Ở đàng Ngoài các cấp hành chính từ cao xuống thấp lần lượt là trấn, phủ, huyện, xã và ở đàng Trong là trấn, dinh, huyện, xã; dưới xã có thể có thôn, trại, ấp, ngoài ra đặt thêm cấp “tổng” ở trung gian giữa huyện và xã. Hai khu vực Bắc bộ và Nam bộ được phân thành các trấn và hợp thành Tổng trấn do 1 viên quan Tổng trấn đứng đầu như Bắc thành Tổng trấn, Gia Định Tổng trấn. Trong đó Bắc thành có 11 trấn gồm 5 nội trấn là Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây và 6 ngoại trấn là Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hoá, Quảng Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Trấn Gia Định (năm 1808 vua Gia Long đổi là Gia Định thành) gồm có 5 trấn là Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh (sau chia ra Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường (sau đổi là Định Tường) và Hà Tiên. Khu vực Trung bộ từ Thanh Hoá đến Bình Thuận phân cấp hành chính theo kiểu quân khu, trong đó lấy Quảng Đức là nơi có Kinh đô làm trung tâm. Đặt Quảng Bình, Quảng Trị làm Hữu dực; Quảng Nam, Quảng Ngãi làm Tả dực gọi là các dinh và gộp 2 cánh Tả dực, Hữu dực với dinh Quảng Đức thành Trực lệ, tạo thành một khu vực quân sự mang tính chiến lược bao bọc và bảo vệ Kinh đô. Ngoài 5 dinh trực lệ, các trấn phía Bắc kinh thành gồm Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh gọi là Hữu kỳ; các trấn phía Nam từ Bình Định đến Bình Thuận gọi là Tả kỳ.Việc thiết triều, vua Gia Long quy định mỗi tháng thiết đại triều 2 lần tại điện Thái Hòa vào các ngày mồng 1 và rằm. Các quan từ Lục phẩm trở lên mặc áo mũ đại triều sắp hàng vào lạy chầu. Thiết thường triều 4 lần tại điện Cần Chánh vào các ngày mồng 5, 10, 20, 25; quan từ Tứ phẩm trở lên mặc áo mũ thường triều sắp hàng vào lạy chầu. Những ngày thiết đại triều tại Hoàng cung, quan các thành và dinh trấn bên ngoài đều phải đến Hành cung ở địa phương bái vọng. Ngoài ra vua Gia Long còn chuẩn định nghi thức trong các đại lễ khánh chúc của triều đình; nghi thức trang phục, nghi thức vào chầu; quy định dùng bảo tỷ, tiền tệ…Việc quản lý ruộng đất, nhân khẩu, năm Gia Long thứ 3 (1804) nhà vua xuống chiếu cho các tỉnh từ Nghệ An, Hà Tĩnh đến các trấn ở Bắc thành kê khai làm địa bạ (sổ ruộng đất) đệ nộp. Năm Gia Long thứ 9 (1810) bắt đầu cho lập Địa bạ từ Quảng Bình trở vào Nam. Mục đích lập Địa bạ là để quản lý ruộng đất, thu tô thuế, vạch định ranh giới giữa các đơn vị hành chính và tránh sự tranh chấp ruộng đất. Theo quy định, mỗi địa bạ được làm thành 3 bản Giáp, Ất, Bính; làm xong gửi nộp lên Bộ Hộ đóng dấu. Bản Giáp để lưu chiểu ở Bộ Hộ, bản Ất lưu chiểu ở thành trấn, bản Bính cấp cho các xã giữ làm bằng. Địa bạ được lập một cách có hệ thống và theo mẫu thống nhất trong phạm vi cả nước. Ngoài ra còn có Đinh bạ là loại sổ để quản lý dân đinh, tuyển lính và một số loại thuế đánh trên đầu người. Theo quy định “phàm suất đinh từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, chiểu thực khai rõ đầy đủ họ, tên, năm sinh chép vào sổ. Các quan văn võ khai rõ chức tước, phẩm hàm; những người đỗ đạt từ Hương cống trở lên; những người là dòng dõi con cháu các công thần triều trước để chiểu theo hạng cho miễn sai dịch.” [3]. Đinh bạ cũng được làm thành 3 bản giáp, ất, bính đệ trình.

Hoàng Đế Gia Long và công cuộc khai lập Triều Nguyễn – 200 năm nhìn lại: Kỳ I – Lập nước, đặt quốc hiệu, xưng Hoàng Đế

Để có cái nhìn đúng đắn công lao của Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế, Ban biên tập xin trân trọng giới thiệu loạt bài viết nhiều kỳ của tác giả Nguyễn Thu Hoài, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1. Ban biên tập trân trọng cám ơn tác giả và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 đã cho phép đăng tải lại trên trang web chính thức của Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam.

Gia Long, vị Hoàng đế đầu tiên sáng lập nên triều Nguyễn, trị vì từ năm 1802 đến năm 1820. Ông là người thống nhất giang sơn về một mối sau gần 300 năm chia cắt bởi cuộc chiến phân tranh Trịnh-Nguyễn. Nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của Hoàng đế Gia Long, cùng nhìn lại sự nghiệp của ông và công cuộc khai sáng vương nghiệp nhà Nguyễn qua Châu bản và một số tư liệu lịch sử.

Gia Long tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh), còn có húy là Chủng () hay Noãn (), là con trai thứ ba của hoàng tử Nguyễn Phúc Luân với bà Nguyễn Thị Hoàn, và là cháu nội của Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ông sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (ngày 8 tháng 2 năm 1762), mất ngày 19 tháng 12 năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), truyền ngôi cho Hoàng Thái tử Nguyễn Phúc Đảm tức vua Minh Mệnh (Minh Mạng). Có thể nói cuộc đời Nguyễn Ánh (Gia Long) là sự nghiệp của một võ tướng trên lưng ngựa. Năm 1777 khi mới 15 tuổi ông đã phải bôn tẩu gian nan, cùng với gia tộc chúa Nguyễn bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục ngôi vị. Cho đến nay có khá nhiều quan điểm trái ngược về Nguyễn Ánh, nhiều người cho rằng ông bắt tay với Xiêm La, Pháp và nhà Thanh để chống lại Tây Sơn. Việc cầu viện ngoại bang nhằm khôi phục vương quyền đã khiến Nguyễn Ánh bị chỉ trích rất nhiều. Tuy nhiên khách quan mà nói, ông là người có đóng góp không nhỏ trong việc thống nhất giang sơn, kết thúc cuộc nội chiến liên miên nhiều thế kỷ ở Việt Nam. 

Chân dung Hoàng Đế Gia Long Nguồn : Sưu tầm

Có thể nói cuộc đời Nguyễn Ánh (Gia Long) là sự nghiệp của một võ tướng trên lưng ngựa. Năm 1777 khi mới 15 tuổi ông đã phải bôn tẩu gian nan, cùng với gia tộc chúa Nguyễn bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục ngôi vị. Cho đến nay có khá nhiều quan điểm trái ngược về Nguyễn Ánh, nhiều người cho rằng ông bắt tay với Xiêm La, Pháp và nhà Thanh để chống lại Tây Sơn. Việc cầu viện ngoại bang nhằm khôi phục vương quyền đã khiến Nguyễn Ánh bị chỉ trích rất nhiều. Tuy nhiên khách quan mà nói, ông là người có đóng góp không nhỏ trong việc thống nhất giang sơn, kết thúc cuộc nội chiến liên miên nhiều thế kỷ ở Việt Nam. Năm 1792, vua Quang Trung mất, nội bộ nhà Tây Sơn suy yếu, lợi dụng cơ hội đó Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn. Năm 1802 ông chính thức lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại quân chủ mới – Triều Nguyễn [1].

Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) ông cho lập đàn ở đồng An Ninh, hiệp tế trời đất, kính cáo việc đặt niên hiệu. Hôm sau kính cáo vong linh liệt thánh, lễ xong vua ngự ở điện, nhận lễ chầu mừng. Đặt niên hiệu là Gia Long, đại xá cho cả nước, ban chiếu cùng 6 điều thi ân.Năm 1804, sau khi lên ngôi sắp đặt chính trị ổn định, vua Gia Long sai Lê Quang Định cùng các sứ thần sang nước Thanh cầu phong và đề nghị công nhận quốc hiệu Nam Việt với ý nghĩa “Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng lớn, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã vỗ yên được toàn cõi Việt, nên cho khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt”. Nhưng vua nước Thanh cho rằng chữ Nam Việt dễ bị nhầm lẫn bao gồm cả Đông Tây Việt [2] nên không muốn cho. Vua Gia Long hai ba lần phục thư biện giải, lại nói nếu không cho thì không thụ phong. Vua nhà Thanh ngại mất lòng, mới cho dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước [3].

Kỷ niệm 330 năm ngày mất của Đức Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế – Chúa Nguyễn Phúc Thái

Năm nay, nhân kỷ niệm 330 năm ngày mất của Ngài Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế, Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam cùng với Hội đồng Trị sự Hệ 7, Tiền Biên, cùng tổ chức lễ huý kỵ của Ngài tại Triệu Tổ Miếu, Đại Nội Huế vào ngày 9 và 10 tháng Giêng, năm Tân Sửu. Xin trân trọng giới thiệu cùng bà con video về Lễ Tiên Thường, Lễ Tưởng niệm và Lễ Huý Kỵ của Ngài.